Hiển thị các bài đăng có nhãn blog. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn blog. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 24 tháng 9, 2020

Tiếng hát con tàu - Có riêng gì Tây Bắc

Đường đời không dễ đi ,càng đi càng phải học cách trân trọng những đoạn đường đã qua . 

Tiếng hát con tàu


Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân


Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chi là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta

Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân


Hà Nội 24/9 /2020







Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Những bài hát hay - Nghe nhạc không quảng cáo

 




















































Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

UỐNG TRÀ - NÉT VĂN HÓA NGHỆ THUẬT TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT

Từ việc uống trà tới cách pha trà, rồi nghi thức thưởng thức trà, cho đến khi đúc kết thành trà đạo là một nét văn hóa được người Việt coi là tôn giáo. Hiển nhiên ở đây trà đạo không đơn thuần là phép tắc uống trà, mà trên hết là một phương tiện làm trong sạch tâm hồn: trước tiên cần hòa mình với thiên nhiên để tu sửa nội tâm, nuôi dưỡng tính và đạt tới giác ngộ.

  Nét đẹp văn hóa trong nghệ thuật thưởng trà của người Việt
Không giống như “trà kinh” của Trung Quốc hay “trà đạo” của Nhật Bản, tại Việt Nam, các bậc tiền nhân cho rằng uống trà là một nghệ thuật, mà nghệ thuật thì phi công thức.
Cách thưởng trà của người Việt cũng mang nét văn hóa riêng: trước khi uống thường đưa qua mũi để tận hưởng hương vị trà, sau mới hạ dần xuống miệng, môi nhấp ngụm nhỏ thấy chát đắng, sau đó chuyển sang vị ngọt dịu, lòng sảng khoái luận về trà.
Người Việt thường dùng trà mộc ướp với nhiều hương liệu khác nhau thành trà sen, trà hoa nhài, trà bạch ngọc, trà mật ong, trà long nhãn, trà nhân sâm… Mỗi loại trà làm nên một hương vị khác nhau, trong đó trà sen là thứ trà quý nhất trước kia chỉ dành cho bậc vua chúa.
Sở dĩ thưởng trà có mùi hương thơm nhẹ nhàng của hoa sen là nét đẹp văn hóa mang đậm chất nghệ thuật trong việc uống trà của người Việt Nam.

Thưởng trà ngâm thơ - Nét đẹp văn hóa rất thi vị mang bản sắc dân tộc!
Nói về thưởng trà, người Việt thưởng trà theo cách độc ẩm (một mình), đối ẩm (hai người), hay quần ẩm (nhiều người). Trà dùng khi độc ẩm thường là lúc thưởng nguyệt ngâm thơ, nếu đối ẩm thì cùng cởi mở văn bài tiêu dao, thậm chí hưng phấn thì cầm kỳ thi họa và cùng nhau thưởng thức tiếng oanh nỉ non ngoài vườn. Trà cũng như người bạn tâm giao của con người, giúp cho người ta nhớ đến tri ân, tri kỷ hoặc suy ngẫm về người, về mình, về nhân tình thế thái những năm tháng qua.

Thưởng trà là cả một nghệ thuật không phải ai cũng biết!
Người Việt có câu rằng: “Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh”. Bởi “nhất thủy, nhì trà”, nên nước dùng pha trà phải là thứ nước mưa được hứng giữa trời hay từ suối nguồn tự nhiên, cầu kỳ hơn nữa là thứ sương đọng trên lá sen vào buổi sớm mai. Cách đun nước cũng phải phải đảm bảo giữ được độ thanh tĩnh và không làm ảnh hưởng đến hương vị của trà. Người trong Hoàng cung xưa khi pha trà thường rất cầu kỳ và công phu, phải hứng từng giọt sương trên búp sen vào lúc chưa có nắng. Còn các bô lão xưa thường dùng nước mưa để giúp cho nước trà tăng thêm vị ngọt, sau khi uống sẽ thấy vị ngọt lưu lại nơi cổ họng.
“Tam bôi, tứ bình” chính là bộ ấm pha và 4 chén quân cùng với 1 chén tống để chuyên trà. Trước khi pha trà phải tráng ấm bằng nuớc sôi cho nóng trước rồi cho trà vào, khi pha xong đậy nắp kín tiếp tục rót nước sôi từ trên nắp xuống như tắm ấm để giữ nhiệt độ trong ấm, giúp cho các cánh trà được thấm đều.
Còn “ngũ quần anh” là tìm bạn trà, khó hơn tìm bạn rượu. Vì bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau thưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi niềm hay bàn chuyện nhân tình thế thái để cảm nhận trong trà có cả trời đất, cỏ cây.
Như vậy, trong văn hóa của phương Đông, trà đạo vừa ẩn chứa vẻ đẹp tinh anh và thanh tao của Phật giáo, vừa ẩn chứa vẻ đẹp thầm kín huyền ảo của Đạo giáo, lại vừa ẩn chứa vẻ đẹp nho nhã hàm xúc của Nho gia. Nói một cách ngắn gọn, “trà đạo” ẩn chứa nội hàm của tu dưỡng. Vậy mới nói, văn hóa giống làn gió xuân, âm thầm nuôi dưỡng để hình thành nên bông hoa tinh khiết tuyệt vời – và đó chính và văn hóa trà đạo.

Home 23/8/2020

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2020

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Sống trên đời, không cần tiếc nuối vì những chuyện đã trải qua, việc tốt mang đến hạnh phúc, việc xấu mang lại kinh nghiệm.
Có một số việc từng khiến ta không cách nào vượt qua, nhưng một ngày nào đó nhìn lại, chợt thấy nó thật nhẹ nhàng, cũng không còn cảm giác khó khăn như thế nữa. Nhưng tại thời điểm đó, cảm thấy vô cùng thống khổ, không cách nào có thể vượt qua.


Cổ ngữ có câu: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”, có duyên thì xa ngàn dặm rồi cũng sẽ gặp, vô duyên thì ngay ở trước mặt cũng không biết nhau.  Trong cuộc sống, có những người đứng đối diện trước mặt bạn, nhưng lại chẳng hề phát hiện ra bạn đang ở cạnh bên; có những người hễ quay đầu lại thì cho dù ở nơi ánh đèn le lói cũng vẫn sẽ tìm thấy bạn. Có những người nói  trăm lời vạn lẽ bạn cũng chẳng chút mảy may rung động. Có những người không nói một lời, nhưng bạn vẫn muốn quan tâm lo lắng mỗi ngày.
Cuộc sống này, có những người đến vội vàng, rồi ra đi vội vã, cùng bạn đi qua mùa xuân hoa nở rồi thu lá vàng, nhưng cuối cùng khi ra đi chẳng để lại chút hằn vết trong bạn.


Thực ra đời người là thế, vô cùng rối rắm, lúc phẳng lặng bình yên, khi gập ghềnh trắc trở, thiên biến vạn hóa, nhưng suy cho cùng cũng không thoát khỏi chữ Duyên. Ta luôn cho rằng mình có rất nhiều thời gian, đời người rất dài, ước mơ này chưa hoàn thành thì ngày mai vẫn có thể tiếp tục, cho rằng những khát vọng bị trói buộc, ngày mai rồi sẽ được giải thoát. Duyên tuy vô hình, nhưng phải biết nắm bắt, duyên đến duyên đi, chỉ trong nháy mắt, nắm bắt được, duyên phận sẽ đến, không nắm bắt được, duyên phận cũng trôi theo dòng nước mà biến mất
Duyên có hợp có tan, duyên có bắt đầu có kết thúc. Giữa người với người không nhất thiết phải tiết chế cảm xúc. Có những việc, không nên gò ép. Cầu được ước thấy, lòng mình vui vẻ, cầu ước chẳng được, mình cũng chẳng ưu phiền.
Duyên không ai biết là ở nơi đâu, duyên cũng chẳng ai biết vào thời điểm nào. Cuộc sống, phải biết tùy theo duyên, thuận theo tự nhiên.  Được mất tùy duyên, không phải hấp tấp, mà cũng không được đắc ý.
Hà Nội 30/5/2020 
Nguyen Binh .

Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2020

Dụng cụ uống trà

Khi bạn tìm hiểu các bài viết về dụng cụ uống trà, nghĩa là bạn đang quan tâm đến việc thưởng trà chuyên nghiệp và có lẽ bạn cũng đang khó khăn trong việc lựa chọn dụng cụ pha trà. Hai vấn đề này chúng tôi cho bạn những lời khuyên như sau:
– Thứ nhất, việc thưởng trà chuyên nghiệp khác với việc uống trà thông thường là ở việc sử dụng ấm pha trà nhỏ hơn và thời gian hãm trà ngắn hơn, chỉ đơn giản vậy thôi
– Thứ hai, bạn sẽ dễ bị rối khi mua trà cụ vì có quá nhiều loại ấm chén, nào là ấm đất, ấm Tử Sa, ấm sành, ấm sứ, ấm thủy tinh và các loại dụng cụ trà đạo đi kèm. Bạn hãy nhớ rằng: trà và tâm hồn trà nên đặt ở vị trí trung tâm, ấm chén chỉ là thứ yếu, không nên đặt nặng phải có ấm đắt tiền hay phải đầy đủ dụng cụ. Ban đầu, chỉ cần có một ấm sứ trắng (hoặc chén khải) đơn giản với dung tích nhỏ (120ml-180ml), loại ấm này có thể dùng pha tất cả các loại trà, bền và dễ chùi rửa.
​Tiếp theo, cần có một chén tống thủy tinh dung tích tương đương với ấm để vắt nước trà ra sau mỗi lần hãm trà, loại tống này giúp dễ dàng quan sát được màu nước. Cuối cùng, chén trà thì đơn giản, nhỏ nhỏ xinh xinh, miễn thích là được.
Lúc mới uống trà chỉ cần vậy, thậm chí nhiều người uống trà lâu năm cũng chỉ cần vậy, người ta tôn sùng sự đơn giản, có chăng người ta chỉ sắm thêm một cái lọc trà để nước không bị cặn và một khay tre nhỏ để đặt ấm chén lên.

Tuy nhiên, bạn cũng nên biết rằng, dụng cụ pha trà rất cầu kỳ trong giới trà đạo. Trà cụ cũng biến chuyển qua các thời đại, nói chung là đẹp hơn, thanh hơn lúc đầu. Nhưng chúng ta phải luôn đồng ý với nhau rằng, quan trọng nhất vẫn là phải có trà ngon, nước ngon và biết pha chế, trà cụ tuy quan trọng nhưng so với những thứ trên thì xếp hàng sau cùng.
Trà cụ đầu tiên phải có là ấm pha trà. Một ấm pha trà tốt cần có hai tiêu chuẩn sau: 1.- Vỏ ấm phải cứng, cầm ấm lên dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ấm nghe boong boong càng trong càng quý; 2.- Nắp ấm phải kín, thử bằng cách đổ ¾ nước vào ấm rồi đậy nắp lại (tay ghì giữ nắp ấm cho chặt) và nghiêng vòi nếu nước không chảy ra thì nắp ấm kín. Vỏ càng cứng càng ít thẩm thấu và nắp càng kín càng ít thoát hơi nước, có như vậy trà mới ấm lâu và ít bay thoát hương vị.
Những tay cự phách trong làng trà thường không thích ấm mới vì còn hôi mùi đất, ấm càng cũ và trong lòng ấm có gợn lớp bợn trà mới cho trà ngon. Do vậy các tay sành trà ít dùng chất tẩy rữa bên trong ấm trà, chỉ tráng qua nước nóng sau khi dùng rồi úp để ráo. Tập quán này trái ngược với nghi thức trà của Nhật. Thậm chí có người mua ấm mới về không đem ra dùng ngay, họ dùng vật nhám chà trong ngoài cho hết bụi đất lò nung gốm bám dính vào, rồi rửa sạch. Kế đó cho bã trà vào nấu nhiều giờ cho hơi trà ngấm vào gốm, có người nấu như vậy mấy ngày đêm, Lúc đó ấm có hơi trà và mùi đất nung biến mất, hương vị trà không bị át mất.
Rồi ấm trà còn phân chia theo số người uống: ấm độc ẩm chỉ để một người uống, ấm song ẩm dùng cho hai người đối ẩm với nhau, hay nhiều người thì dùng ấm quần ẩm. Nói chung là tùy số lượng người mà chọn ấm cho phù hợp, mỗi lần rót cho mỗi người đủ 2 chén là hợp lý.

Ấm dùng hàng ngày không nên mua loại hình dáng kỳ dị, khó pha và cũng khó rửa. Ấm trơn hoặc ấm hình kỷ hà, trang trí nhã nhặn, điểm vài chữ viết … Những ấm đắt tiền thường là đất tốt, da mịn, trông qua cũng biết loại thượng phẩm. Ấm rẻ tiền hạng soàng, sờ nhám tay, trong lòng ấm chỗ lồi chỗ lõm, thô tạo. Ấm trà bán theo bộ, nghĩa là đủ mọi thứ trong một “set” thường không phải là loại hảo hạng, chỉ dùng trong việc tiếp khách đông người.
Khi nói đến ấm pha trà, người Việt hiện thời nhớ ngay câu: “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần” trong Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân. Nhưng ít người biết thực ra ba loại này là ba chủng loại của ấm Nghi Hưng, thích hợp dùng cho những loại trà đã oxy-hóa nhiều như trà ô long, hồng trà; không nên dùng cho trà xanh hay trà trắng. Khi các cụ thời xưa ca tụng ba loại ấm này hẳn là giới trung lưu quen dùng trà tàu
Trên trường quốc tế khi nói đến ấm pha trà thiên hạ nghĩ ngay đến ấm Nghi Hưng.
Hiện Trung Quốc xem nghệ thuật làm ấm đất tử sa một trong bốn quốc bảo cần bảo tồn, ba thứ còn là kinh kịch, tranh thủy mạc, và lụa Tô Châu.
Sự nổi tiếng của ấm Nghi Hưng ngoài việc nó được làm bằng tay nên mỗi chiếc như một tác phẩm nghệ thuật. Giá trị của ấm Nghi Hưng ở chỗ không có tráng men nên hấp thụ nước trà khiến càng lâu ngày trà càng có hương vị thơm hơn; cũng chính vì vậy ấm đất Nghi Hưng không được dùng chất tẩy rửa để làm vệ sinh. Thường ấm dùng xong người ta chỉ tráng nước nóng rồi úp cho ráo. Hình thức bên ngoài ấm Nghi Hưng cũng rất đa dạng, có thể vuông, lục giác, tròn, thậm chí hình trái phật thủ, sừng tê giác…
Nói đến ấm trà không thể không nhắc đến ấm sản xuất tại Đài Loan. Từ khi chính quyền dân quốc thiên di sang hòn đảo này, nhiều người trong số di dân là nhà sưu tập hoặc dân bản xứ vùng Giang Tô. Nghề làm ấm cũng được truyền theo. Ấm Đài Loan cũng đẹp không kém gì ấm sản xuất tại lục địa. Về phương diện tinh xảo và cầu kỳ có phần hơn. Tuy nhiên giá cả thường đắt một chút.
Kế đến là chén trà. Người xưa có câu “ấm đất Nghi Hưng, chén sứ Cảnh Đức”; nói chén uống trà phải nói đến Cảnh Đức Trấn. Nếu Nghi Hưng có loại đất sét đỏ gọi là tử sa làm ra loại ấm đất lừng danh, thì Cảnh Đừc có loại đất sét trằng gọi là cao lanh làm ra loại chén sứ có tên tuổi không kém phần lừng lẫy. Sứ Cảnh Đức đặc sắc ở điểm có lớp men ngọc nhiều màu và men ngọc bích (celadon), men chén mỏng và nhẹ, tiếng gõ vang trong và ngân rất dài. Với đặc điểm này làm chén dùng trà khiến trà trở nên tươi ngon hơn

Thực tế ít nhất từ đời Lý-Trần Việt Nam đã làm ra dụng cụ uống trà bắng sứ rồi. Dĩ nhiên vào thời nhà lý chén trà vẫn còn hơi nặng, dù đã tạo ra men ngọc nhưng men chưa được mỏng, tiếng gõ chưa trong và ngân như chén của người Trung Hoa. Qua đời Trần thì có những sản phẩm không thua kém nhiều, gốm Chu Đậu về kỹ thuật đã đạt nhưng vấn đề nguyên liệu sản xuất rõ ràng còn thua kém đất của Cảnh Đức vốn lừng danh. Đến đời Lê-Mạc, gốm Chu Đậu được giới chuyên môn hiện nay đánh giá “mỏng như giấy, trong như ngọc, trắng như ngà, kêu như chuông” nên có thể nói không còn thua kém nữa. Gốm Chu Đậu hiện đã được thế giới biết đến dù số lượng trưng bày trong các viện bảo tàng khá hiếm hoi. Theo tác giả Khánh Hưng, bình gốm Chu Đậu đang trưng bày ở Viện Bảo Tàng Topkapi Sarayi (Istanbul – Thổ Nhĩ Kỳ) có giá lên đến 1 triệu đô-la mỹ [Nguồn trang web Eastern Culture]. Một chiếc bình Chu Đậu khác (trước kia thuộc gia sản của sứ quân Yoshiharu Tokugawa – 1737-1786) hiện đang được bảo quản Viện Bảo Tàng Quốc Gia Nhật và được đánh giá là Tài sản Văn hóa Trọng yếu (Important Cultural Property).
Chén trà có hai loại: chén tống (trại âm từ chữ tướng) và chén quân. Chén tống dùng chuyên trà từ ấm ra, rồi rót vào chén quân để uống. Theo Vương Hồng Sển thì miền Bắc dùng một chén tống và bốn chén quân; miền Trung trở vào Nam dùng một chén tống với ba chén quân nên mới có thành ngữ “nhất tống tam quân”.
Bộ chén trà lại chia làm bốn loại để dành dùng cho từng mùa: xuân ẩm, hạ ẩm, thu ẩm và đông ẩm. Hình dạng bốn bộ chén này cỡ vừa (không lớn không nhỏ, không dày không mỏng) vào xuân thu gọi là kiểu xuân ẩm và thu ẩm; nhưng kiểu Hạ ẩm dùng cho mùa Hạ chén nhỏ thành mỏng giúp nước nhanh nguội, kiểu Đông ẩm thì chén trà dày và lòng chén sâu giữ cho trà lâu nguội.
Những dụng cụ uống trà thường thấy
Những dụng cụ uống trà thường thấy trên một bàn trà: ấm trà; tống; chén; khay trà; hủ đựng trà, lọc trà, kháo trà, bộ dụng cụ gắp, lót ly

– Ấm trà: ta nên lựa chọn sao cho phù hợp với nhu cầu dùng, dung lượng tương thích với số người sẽ dùng sao cho lượng trà pha ra vừa đủ tránh tình trạng thiếu hoặc dư sẽ khiến nguội trà. Nếu có điều kiện chúng ta nên lựa chọn ấm Tử Sa, nếu không có thể sử dụng ấm gốm Bát Tràng hoặc ấm sành sứ.
Ấm sành sứ, ấm Bát Tràng được khuyên dùng để uống các loại trà xanh, còn các loại trà lên men như Ô Long, Hồng trà thì nên dùng ấm Tử Sa. Ấm tử sa được giới uống trà ngưỡng mộ và được đánh giá cao để có được những chén trà ngon.
– Chén tống: (hay cũng gọi là chén tướng) là dụng cụ tối cần thiết trong bộ trà cụ, sử dụng chén tống trong qua trà có 4 công dụng:
+ Giúp nước trà được trộn đều, tránh bị chỗ đậm chỗ nhạt
+ Dùng chén tống giúp ta lọc được cặn trà, giúp nước trà được trong và thẫm mỹ hơn
+ Giúp làm giảm nhiệt độ của nước trà để trà không quá nóng khi uống
+ Nhiều người còn rót nước sôi vào chén tống trước, rồi mới đổ vào ấm trà để giảm nhiệt độ nước khi pha các dòng trà xanh (trà xanh pha nước dưới 90 độ)
Dung tích tống nên lựa chọn theo dung tích của ấm, nên chọn tống thủy tinh hoặc trắng sứ để dễ quan sát màu nước.
 – Chén quân: lựa chọn chén quân sao cho phù hợp với màu của ấm để đảm bảo sự đồng bộ, ấm tử sa thì dùng chén tử sa, ấm sành sứ thì dùng chén sành sứ.
Chén trà còn phải phù hợp với loại trà, hợp với mùa hoặc thời tiết tại thời điểm dùng chén, đôi khi việc lựa chọn chén cũng phụ thuộc vào cảm xúc của người thưởng trà.
– Khay trà:
Tuy không đụng chạm trực tiếp gì đến trà nhưng khay trà góp một phần trong thú chơi trà. Khác với chén trà kiểu Phương Tây, chén trà Á Đông đúng nghĩa không có dĩa riêng cho từng chén. Thay vào đó là khay trà để đúng chén tống, chén quân và còn có tách dụng tránh nước trà rây ra chỗ ngồi.
Có rất nhiều loại bàn và khay trà bạn có thể chọn: bàn gỗ, bàn đá, bàn kiếng, bàn sơn mài, bàn kim loại… tùy phong cách và bài trí của mỗi người mà chọn bàn, hay khay trà phù hợp. Lựa chọn sao cho giản dị, tiện vệ sinh, khay quá cầu kỳ sẽ khiến cho những món đồ trên khay bị chìm đi.
Đối với phong cách pha trà đơn giản theo kiểu Nhật, thường không sử dụng khay trà mà sử dụng một tấm khăn dài để trải lên bàn, làm nơi để các dụng cụ ấm chén pha trà
– Lọc trà: Lọc trà là dụng cụ uống trà rất quan trọng trong việc thưởng trà, có tác dụng lọc cặn xác trà nhỏ để nước trà được trong và đẹp mắt hơn
Liên quan đến việc sử dụng lược trà, ta thấy phong cách pha trà kiểu Đài Loan, Trung Quốc hiện đại thì không thể thiếu dụng cụ này. Tuy nhiên, đối với phong cách pha trà truyền thống của Việt Nam thì không dùng lọc mà rót hẳn nước trà có lẫn cặn trà vào trong tống luôn.
Vì ông cha ta cho rằng người Việt Nam trong lối giao tiếp, đối đãi không bao giờ “cạn tàu ráo máng” mà lưu lại chút nghĩa chút tình với nhau, cho nên chén trà không bao giờ uống cạn. Việc không dùng lọc ẩn chứa những ý nghĩa sâu sa tốt đẹp.

– Hủ đựng trà: nhiều người cầu kỳ thích chọn hũ đựng trà bằng đất nung, tuy nhiên tùy điều kiện bạn có thể chọn hũ đựng trà bằng nhôm, thiếc, thủy tinh sao cho phù hợp.
Hủ đựng trà ngoài việc phải đảm bảo kín hơi, còn phải hạn chế được ánh sáng trực tiếp chiếu vào, vì đó là nguyên nhân khiến trà giảm hương vị.
– Kháo trà: là một chiếc bát lớn vừa phải dùng đựng nước sôi để vệ sinh và làm nóng các các dụng cụ trước khi pha trà, đồng thời bỏ nước tráng trà và bả trà sau khi dùng xong.
Nếu sử dụng bàn trà có khay chứa nước ở bên dưới thì có thể không cần sử dụng dụng cụ này, mà thao tác trực tiếp trên bàn trà.

-Bộ dụng cụ gắp: Bộ dụng cụ pha trà này thường bao gồm một cây xúc trà, một que gắp chén, một que nhỏ để đưa trà khô vào ấm và một thông vòi. Có bộ còn có thêm 6 miếng lót ly
– ​Trà cụ khác: Bên cạnh các loại dụng cụ uống trà bên trên việc pha trà không thể thiếu cái ấm nấu nước pha trà bằng kim loại, bằng sứ hay ấm điện; ngoài ra còn cần một khăn nhỏ để lau nước trà giữ cho bàn trà được sạch sẽ.
Một số người uống trà còn có một cái cân tiểu ly để định lượng trà, một nhiệt kế cầm tay để đo nhiệt độ nước cho chính xác, thậm chí là một đồng hồ bấm giờ để canh thời gian pha trà. Liên quan đến những dụng cụ này, có những ý kiến trái chiều.
Những thiết bị này có thể làm cho mọi thứ dễ dàng, nhưng trở thành đôi nạng hướng tới kỹ năng thực sự (gongfu). Cố gắng học hỏi kinh nghiệm và đừng sợ phạm sai lầm. Thực hành đo số lượng bằng trà, lắng nghe âm thanh nước reo hoặc nhìn hơi nước và dốc trà theo cảm giác.

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2020

Quốc Thái Dân An

Quốc thái, dân an là niềm mơ ước muôn đời của mọi quốc gia, mọi dân tộc. Thái là thái bình, an là an lạc. Quốc thái, dân an là đất nước được thanh bình, thịnh vượng, không có chiến tranh hoặc thiên tai, dân chúng trong nước được sống trong an vui, ấm no, và hạnh phúc.



i

.

Trong cơn hoảng loạn của cả thế giới  với dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID - 19 nói ra điều gì tích cực cũng là điều rất khó khăn




Thứ Tư, 19 tháng 2, 2020

Chùa Yên Tử 2017

Chân tháp lơ thơ vài khóm trúc
Gió đưa nghiêng ngả tựa người say
Một thời pháp phái Thiền Trúc tự
Xanh rì, bát ngát cỏ cùng cây.
(Dốc Đá Chùa Đồng)

Chùa Yên Tử 2017

Chùa Yên Tử 2017




Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo Thiền Tông thuần Việt, do người Việt trực tiếp sáng lập ra. Là nơi hội tụ của các công trình kiến trúc cổ kính do các Tăng, Ni, Phật tử và triều đình phong kiến của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng, tu bổ và tôn tạo. Những công trình này đã phản ánh khá rõ nét sự phát triển của kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc, tiêu biểu cho tài năng sáng tạo nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Đây là một quần thể di tích rất lớn và ra đời sớm ở Việt Nam.

Chủ Nhật, 26 tháng 1, 2020

Dòng Thời Gian

Chúng ta không thể so sánh thời gian với vàng bạc, tiền tài hay những giá trị vật chất khác, nó hơn thế!
 Thời gian là thứ quý giá nhất mà chúng ta được cuộc đời này ban tặng, tuy vậy, thời gian của mỗi người là khác nhau, và sự cảm nhận về thời gian của mỗi người cũng khác nhau trong từng thời điểm. 
Nhưng dù thời gian của bạn khoác lên chiếc áo màu gì, và bạn cảm thấy thời gian của mình trôi nhanh hay chậm, dữ dội hay dịu êm, ồn ào hay lặng lẽ, điều đó không quan trọng. 
Quan trọng là nó vẫn luôn miệt mài trôi đi một cách đáng sợ, món quà vô hình và bí ẩn này vẫn luôn âm thầm chi phối cuộc sống của chúng ta dù chúng ta có muốn hay không.
 Để sau này không phải nuối tiếc về nhiều thứ, có lẽ, ngay từ hôm nay, chúng ta nên học cách để kiểm soát lại nó – thời gian!
2013


Thứ đã trôi qua thì sẽ không bao giờ tìm lại được, rất nhiều người có thể thấy được vẻ đẹp của thời gian, song, không phải ai cũng thấy được điều đáng sợ của nó. Bạn có thể trì hoãn, nhưng thời gian thì không. Cũng giống như nước thủy triều lên xuống, tâm tình của con người cũng biến đổi theo thời gian.

2013



Mồng 2 tết Canh Tý - www.nguyendinhbinh.com







Thứ Năm, 26 tháng 12, 2019

Dù ai đi ngược về xuôiNhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba


Đền hùng 2012

 Thời gian đi qua, chúng ta đã chẳng còn là chúng ta của ngày trước, cuộc sống bận rộn hơn, nhiều nỗi lo hơn, nhiều mối quan hệ mới hơn. Tất cả dần dần bào mòn đi những điều xưa cũ, dù không phải cố tình, nhưng vẫn chẳng còn nhớ về những ngày xưa


Đền Hùng 2015
Ba năm để quay lại một địa điểm


Tư tưởng trị quốc mà vẫn thực dụng cho tới hiện nay  "thương lãm thực nhi tri lễ tiết, y thực túc nhi tri vinh nhục" (kho lương thực có đầy, dân có ấm no, đủ ăn đủ mặc thì mới có thể nghĩ tới lễ tiết, lễ nghĩa, đến vinh dự hay xấu hổ)… 



Thứ Bảy, 21 tháng 12, 2019

Công việc kinh doanh dập tắt ngọn lửa đam mê

Chỉ có trải nghiệm, va đập thật nhiều, chúng ta mới nhận ra đâu là công việc yêu thích và mục tiêu thật sự muốn hướng đến , điều ta lựa chọn cuối cùng hoàn toàn không liên quan, thậm chí đối lập với lĩnh vực yêu thích ban đầu. Đôi khi, đam mê thật sự xuất hiện trong những công việc ta "buộc" phải làm để duy trì cuộc sống



Hình ảnh 5 năm trước
                             


Khá nhiều các start-up thành công thường chỉ nói về nỗ lực bản thân hay cách mà đam mê dẫn lối, lảng tránh thực tế họ nhận được sự hỗ trợ tối đa từ gia đình, cả về nền tảng tài chính cũng như mối quan hệ.


 

"Không gì là không thể", câu nói này vang lên nhiều lần ở các cuộc hội thảo đa cấp, với tác dụng như một phương pháp tự kỷ ám thị. Sự thật, có rất nhiều điều chúng ta không thể làm được trong đời.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2019

Nhà tranh vách đất

Nhà tranh vách đất hiện nay không còn nhiều. Nhiều vùng nông thôn vắng bóng nhà tranh. Sau này mấy ai còn được biết cái nhà tranh vách đất là gì ? 
Bây giờ những mái nhà tranh chỉ còn hiện diện trong tranh, ảnh. Cũng có vài bộ phim Việt dựng lại bối cảnh xưa những ai đã từng sống trong những mái nhà tranh


Nhà tranh mà dân gian thường gọi là "nhà tranh vách đất" là những ngôi nhà mà số đông người Việt ăn ở, sinh sống từ thời xa xưa. Thời gian đó, loại hình-trúc dân-gian này không những có ở hầu khắp các vùng nông thôn Việt-Nam, là mái ấm che nắng, che mưa cho hầu hết người nông dân Việt ở những vùng nông thôn nghèo khó; ngay ổ vùng đất giáp ranh kinh kỳ hay một số nơi ở kinh-kỳ thì mái tranh cũng là nơi cư ngụ của những người lao động, những người thợ thủ công...

      Tuy chỉ là những "mái tranh vách đất" nhưng nhiều ngôi nhà tranh rất đẹp, không xa hoa nhưng rất thanh-lịch, không lầu các nguy nga nhưng lại tạo ra một không gian ấm cúng đến kỳ lạ. 









Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2019

Chùa Tây Phương

Chùa Tây Phương giữa một miền non nước, Bao năm rồi La Hán vẫn lặng im



Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2018

Những câu chuyện của ông

Ngày 2/2/2016  -  (24/12 Âm Lịch)
Hình ảnh Chùa Bắc Lãm

Thế giới này là một bức tranh muôn màu muôn vẻ





Tôi thường nghe người ta nói không có gì tồn tại vĩnh viễn đến một lúc nào đó nó rời xa chúng ta mãi mãi
Copyright © 2012 Nguyen Đinh Binh .